Nhưng câu hỏi nằm trong tâm trí nhiều nhà hoạt động trong Phong trào Dù đó là thành phố này có thể duy trì bản sắc ngôn ngữ và văn hóa riêng biệt như thế nào trong bối cảnh sự hợp nhất với đại lục sau cùng có thể xảy ra, hoặc liệu họ phải đối mặt với sự đồng hóa về văn hóa hay không. Một vài phần của ý nghĩ đó xuất phát từ việc Hồng Kông đã từng kinh qua chủ nghĩa thực dân, thời kỳ mà họ được trao một số quyền tự trị nhất định. Người Anh cai quản bằng tiếng Anh, nhưng không giống TC đại lục, họ không mong muốn đồng hóa, và không cố gắng can thiệp vào sự phát triển văn hóa và xã hội của thành phố này.
Tiếng Quan Thoại và sự phản đối chống lại nó đã có lịch sử lâu đời ở Trung Quốc từ những năm tháng suy tàn của triều đại nhà Thanh (1644 – 1911). Sau hàng loạt thất bại quân sự nhục nhã hồi giữa thế kỷ 19, giới tinh hoa Trung Quốc tuyệt vọng tìm cách lý giải những hạn chế của chính đất nước mình. Sự cai trị trì trệ bởi giới vua chúa càng làm gia tăng thêm nỗi tuyệt vọng trong tầng lớp tinh hoa, khiến giới quan chức và trí thức băn khoăn liệu hiện đại hóa công nghệ và quân sự có đủ để đẩy Trung Quốc bước vào thế giới hiện đại hay không. Điều này làm họ nhận thức rằng tình trạng lạc hậu của Trung Quốc bắt nguồn từ thứ còn sâu xa hơn: nền văn hóa của nước này.
Vì vậy, ngôn ngữ chính là trung tâm trong công cuộc tái tạo của Trung Quốc. Lúc bấy giờ, người Trung Quốc sử dụng hàng trăm ngôn ngữ địa phương, được gọi là fangyan (phương ngôn), vốn không hề có điểm chung. Bước sang thế kỷ 20, khi sự hỗn loạn chính trị đe dọa xé tan Trung Quốc thành nhiều mảnh, điều đó đã thay đổi. Ngoài việc sáng tạo ra lá cờ quốc gia và đề cao một lịch sử chung của quốc gia, nhà nước (TC) bắt đầu khởi xướng một ngôn ngữ quốc gia duy nhất.
Thông qua những ủy ban được nhà nước tài trợ, các học giả đã gặp gỡ nhau trong suốt hai thập niên đầu tiên của thế kỷ 20 nhằm sáng tạo và truyền bá ngôn ngữ đó. Trong khi một số người đề xuất Trung Quốc nên theo bước Nhật Bản và áp dụng ngôn ngữ của thủ đô làm chuẩn mực quốc gia, nhiều người khác thúc giục một sự hợp nhất – một thứ ngôn ngữ chứa đựng các đặc trưng âm sắc của các loại tiếng Trung Quốc khác nhau, trong quá khứ và cả hiện tại. Năm 1913, một ủy ban đã đồng thuận về một sự hợp nhất như vậy, nhưng thực tiễn giảng dạy một ngôn ngữ như thế đã chứng minh là không khả thi. Như một trong những người sáng tạo ra thứ ngôn ngữ này đã nói đùa nhiều năm sau đó, “Tôi là người duy nhất sử dụng ‘thứ thổ ngữ ngu ngốc’ (idiolect – chơi chữ giữa idiot và dialect) này, thứ vốn được dự định trở thành ngôn ngữ quốc gia cho bốn, năm hay sáu trăm triệu người sử dụng.” Những người mơ mộng về một thứ ngôn ngữ quốc gia bao quát hết tất cả sự đa dạng ngôn ngữ của Trung Quốc đã phải chấp nhận thất bại. Năm 1927, khi Quốc Dân Đảng tiến hành một cuộc viễn chinh lên miền Bắc nhằm đưa toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc vào phạm vi kiểm soát của một chính quyền trung ương, họ đã lựa chọn tiếng Quan Thoại – dựa trên ngôn ngữ được dùng tại Bắc Kinh – làm ngôn ngữ quốc gia. Các ngôn ngữ địa phương khác của Trung Quốc, bao gồm cả tiếng Quảng, được xem là thổ ngữ – một thực thể ngôn ngữ phụ.
Sau năm 1949, tại TC của Mao, Đảng Cộng sản phán xét mọi tư tưởng và hành vi bằng cách xem chúng có gắn liền với các mục tiêu quốc gia không – và họ xem việc sử dụng ngôn ngữ của Trung Cộng là hành động hữu ích và cách mạng. Các sở giáo dục địa phương mời học sinh, giáo viên và quan chức tham gia vào chiến dịch “Truyền bá tiếng Quan Thoại”, trong đó họ được tuyên truyền rằng tư duy của họ sẽ được hoàn thiện hơn nếu dùng ngôn ngữ của nước TC cách mạng. Một diễn giả tại một trong những sự kiện đó đã tuyên bố rằng, “Tuân theo Đảng (Cộng sản) chưa bao giờ là sai lầm. Sử dụng ngôn ngữ quốc gia là tuân theo Đảng.” Trong hoàn cảnh như vậy, sử dụng một ngôn ngữ thay thế khác là phản động.
Dĩ nhiên, Hồng Kông phần nào đó đã được che chắn khỏi các chính biến ở TC nhờ địa vị là một thuộc địa của Anh. Nhưng họ nhận thức được lịch sử đó, và kể từ khi được trao trả cho TC vào năm 1997, họ đặc biệt nhạy cảm với sự áp đảo ngôn ngữ quốc gia của Bắc Kinh đối với các phương ngôn. Ví dụ, Pang Ho-cheung (Bành Hạo Tường), một đạo diễn phim người Hồng Kông, đã vô tình trở nên nổi tiếng vài năm trước khi ông đã khăng khăng nói tiếng Quảng Đông tại một hội chợ sách, bất chấp các phóng viên yêu cầu ông nói tiếng Quan Thoại. Cư dân mạng Hồng Kông ca ngợi ông là “bảo vệ chân giá trị” của Miền Nam Trung Quốc, những bình luận ám chỉ rằng việc sử dụng phương ngôn là một hành động chính trị dũng cảm.
Năm 2010, một nhóm người biểu tình đã tụ tập ở Công viên Nhân dân Quảng Đông, hát vang các bài nhạc pop tiếng Quảng và mang áo phông in khẩu hiệu thể hiện niềm tự hào về vùng của mình, chẳng hạn như bài “Hát lời ngợi ca Quảng Đông” (Sing Praises for Canton). Một người đàn ông tự hào giơ một poster ghi “Tôi yêu tiếng Quảng Đông; Tôi không nói tiếng bí đao hầm.” Cụm từ “bí đao hầm” (bodonggwa) được sử dụng rộng rãi như tiếng lóng mang tính chế diễu trong tiếng Quảng Đông để nhại từ Putonghua (tiếng Quảng là potongwa) có nghĩa là “phổ thông thoại” (tiếng phổ thông), hay tiếng Quan Thoại.
Việc sử dụng ngôn ngữ mang tính khiêu khích ở cuộc biểu tình này, cũng như với Phong trào Dù về sau, chính là sự phản kháng lại yêu sách ngoan cố của TC đại lục về một bản sắc hợp nhất. Bằng việc sử dụng tiếng Quảng Đông, người dân Hồng Kông đã nhấn mạnh rằng bản sắc Trung Quốc vẫn là một vấn đề tranh cãi, một trận chiến mà trong đó nhà nước TC và người dân bình thường từ Cáp Nhĩ Tân đến Hồng Kông sẽ phải đấu tranh vì quyền xác định đâu mới là bản sắc Trung Hoa.
Gina Anne Tam là Trợ lý Giáo sư ngành Lịch sử Trung Quốc tại Đại học Trinity. Bà nhận bằng tiến sĩ ở Stanford vào năm 2016, và hiện đang viết một cuốn sách về vai trò của tiếng địa phương trong việc kiến tạo nên Trung Quốc hiện đại.
This post has been edited 2 times, last edit by "nguoi pham" (Sep 9th 2016, 2:12am)