Trong những năm 1950, dòng nhạc jazz đã đạt đỉnh tại Hoa Kỳ. Nhạc jazz phát triển mạnh mẽ, trở thành một dòng nhạc trí thức. Jazz là thể hiện bởi nhiều nhân vật nổi tiếng, Duke Ellington, Louis Armstrong và Dizzie Gillespie. Vẫn theo ông Claude Carrière, việc chọn nhạc Jazz là một ý tưởng độc đáo để có thể làm đối trọng vũ kịch ballet Bolchoi và Kirov đang tung hoàng ngang dọc trên khắp năm châu.
“Nước Mỹ chẳng có gì độc đáo để giới thiệu với thế giới bên ngoài. Chẳng lẽ họ lại đưa dàn nhạc sang châu Âu biểu diễn George Gershwin. Ở châu Âu, người ta chơi hay hơn nhiều, rồi có Ravel và người Nga thì có âm nhạc cổ điển theo truyền thống châu Âu thật tuyệt vời, có thể sánh vai với mọi loại âm nhạc khác. Trong khi đó, Jazz là một loại âm nhạc rất độc đáo, đã chinh phục được một phần lớn thế giới và tiếp tục chinh phục các nước ở bên kia bức màn sắt, nhờ có đài Tiếng Nói Hoa Kỳ.”
Và thế là những gương mặt tiêu biểu của dòng nhạc Jazz lúc bấy giờ đã được bộ Ngoại Giao Mỹ mời tham gia vào chương trình “Jazz Ambassadors”. Những vị đại sứ này đã thực hiện những chuyến lưu diễn huyền thoại trên toàn thế giới từ Châu Âu cho đến Nam Á, qua cả vùng châu Phi. Mục đích là nhằm đưa ra hình ảnh một nước Mỹ tự do, đầy hy vọng ngay giữa lòng cuộc chiến tranh lạnh đối mặt với các nước thuộc khối Hiệp ước Vacxava.
Nhưng rồi những đại sứ Jazz đó cũng nhanh chóng nhận ra rằng trong khi đang thực hiện sứ mệnh cao cả ở bên ngoài biên giới, ngay tại quê hương xứ sở của mình, họ và những người thân phải gánh lấy nỗi dằn vặt của một xã hội phân biệt và kỳ thị chủng tộc. Họ đã tận dụng các sự kiện này để thể hiện chính kiến theo cách có lợi cho mình. Claude Carrière đã nói:
“Tôi thấy Louis Armstrong thật là tuyệt vời. Đôi khi ông không câu nệ câu chữ ngôn từ để bày tỏ suy nghĩ của mình.”
Claude Carrière không quên được câu nói nổi tiếng của Louis Armstrong:
“Tôi sẽ không đại diện cho một đất nước có những cấm đoán đối với những người cùng chủng tộc với tôi, họ tới trường thì phải hứng chịu những lời sỉ nhục của những kẻ thuộc cộng đồng khác. (…)”
Chuyến lưu diễn bắt đầu từ tháng 3/1956, kéo dài trong vòng ba tháng. Mỗi một nơi họ đi qua từ Iran, Pakistan, Syria, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, Nam Tư cũ, Anh Quốc hay Liên Xô đều để lại một dấu ấn riêng biệt.
Nhưng chuyến lưu diễn ngoại giao này cũng để lại trong tâm trí những nghệ sĩ da mầu này những nỗi đau khôn tả khi khám phá ở từng nơi họ đi qua những cảnh bần hàn tại những nước sống dưới chế độ độc tài. Và họ đã thể hiện một tình liên đới còn mạnh mẽ hơn so với những gì các sĩ quan Mỹ tại chỗ cho thấy.
Người ta còn nhớ đến câu nói nổi tiếng của Dizzie Gillespie tại Karachi, Pakistan khi biết rằng khán giả đến xem phải trả tiền vé đắt. Ông nói:
“I came here to play for all people, not just for the elite”
(Tôi đến đây để hát cho tất cả mọi người cùng nghe, chứ không chỉ cho người giàu).
Ông đã từ chối biểu diễn cho đến khi nào chiếc cổng nhà hát được mở rộng cho tất cả mọi người kể cả người nghèo có thể vào và nghe ông hát. Dĩ nhiên, không có gì là toàn thiện. Cuộc lưu diễn tại Liên Xô, được cho là cuộc trình diễn quan trọng nhất đã xảy ra vài sự cố nhỏ. Tổng Bí thư đảng Cộng sản Liên Xô lúc bấy giờ, ông Nikita Khrouchtchev vốn dĩ không thích nhạc Jazz nhưng cũng đến dự một buổi hòa nhạc, và đã bày tỏ thất vọng chỉ vì những bất đồng trong dàn nhạc. Ông Claude Carrière giải thích :
“Ông ta không thích nhạc Jazz nhưng cuối cùng cũng tới nghe hòa nhạc. Goodman là một người rất có học, ông có một dàn nhạc mà đa số nhạc công là người da trắng, chỉ có hai người thổi kèn trompette là người da đen và một nữ ca sĩ da đen, trước khi hát ở dàn nhạc của Duke Ellington. Ông ta là một người rất khó chịu, tới mức mà nhiều nhạc công và một người thổi trompette đã kiếm cớ để về nước sớm. Người thổi trompette bịa chuyện là mẹ vợ qua đời để rời dàn nhạc và về nước sớm nhất. Ông ta đối xử không tốt với nữ ca sĩ da đen. Lúc mới đi công diễn, ông ta để cho nữ ca sĩ này hát 3 bài, sau rút xuống hai bài và giai đoạn cuối chuyến đi công diễn, cô ta chỉ được hát có một bài. Một nửa cuốn sách của Bill Crow, người chơi contrebasse trong dàn nhạc của ông ta, kể lại chuyến đi biểu diễn đầy náo loạn này.”
Dẫu sao thì những chuyến lưu diễn đó đã để lại ấn tượng đáng nhớ trong lòng người hâm mộ. Thành công có được của các đại sứ Jazz cũng nhờ vào những chương trình phát sóng trên đài The Voice of America (Đài Tiếng nói Hoa Kỳ), một công cụ tuyên truyền nhắm vào các nước Đông Âu sau Đệ Nhị Thế Chiến. Những ai sống qua thời kỳ ấy hẳn sẽ không bao giờ quên chương trình Jazz Hour, nổi tiếng rất được nhiều người hâm mộ lắng nghe.